Dortmund 1997 và 2013: Từ thực dụng đến cống hiến
KHÁC BIỆT TRONG CÁCH LÀM…
Sau khi vượt qua Real Madrid tại bán kết, GĐĐH Hans-Joachim Watzke của Dortmund tuyên bố: “Chúng tôi sẽ còn thành công hơn nữa. Dortmund hiện tại không giống Dortmund từng vô địch Champions League 1996/97”. 16 năm trước, thời kỳ vàng son của Dortmund kết thúc chóng vánh bởi đội hình già cỗi. Còn bây giờ, Watzke tự tin vì đội bóng của ông đang hướng tới sự phát triển bền vững dựa trên dàn cầu thủ tiềm năng.
Đó là điểm khác biệt rõ nét giữa Dortmund của hai thời kỳ thành công. Giai đoạn 1994-1997, họ đoạt 2 chức vô địch Bundesliga và lên ngôi tại Champions League 1996/97 bằng dàn cầu thủ đã trưởng thành. Paolo Sousa, Paul Lambert đến vào năm 1996. Kohler, Patrick Berger, Heinrich, Herrlich cập bến Dortmund trước đó 1 năm. Và trước nữa là màn đổ bộ của những Sammer, Reuter, Andreas Moeller, Chapuisat. Dortmund giống như một “Lương Sơn Bạc”, nơi tụ nghĩa của dàn cầu thủ hàng đầu với nòng cốt là các tuyển thủ quốc gia Đức. Dortmund thời đó lao đầu vào chuyển nhượng để hy vọng gặt hái thành công nhanh nhất có thể. Nhưng cái nền là lực lượng trẻ lại bị bỏ quên. Thế nên chỉ một năm sau chức vô địch Champions League 1996/97, dàn cầu thủ chớm qua thời đỉnh cao của HLV Ottmar Hitzfeld đã xuống dốc nhanh chóng.
Dortmund của năm 2013 là đội bóng hoàn toàn khác. Những trụ cột như Lewandowski, Mario Goetze, Reus, Guendogan, Hummels, Grosskreutz đều chưa tới tuổi 25. Phần lớn trong số này (ngoại trừ Goetze) không đến từ lò đào tạo Dortmund nhưng được đón về mài giũa từ khi còn vô danh. Dưới tay Juergen Klopp, những “viên ngọc thô” giờ đây đã phát sáng khi tuổi đời còn rất trẻ. Khác với 16 năm trước, Dortmund đang gặt hái thành công từ cách làm bóng đá trẻ bài bản, kỹ lưỡng và rất kiên trì. Vì thế Champions League 2012/13 sẽ không phải là đỉnh cao cuối cùng của thế hệ cầu thủ Dortmund hiện nay, như cái kết của thế hệ 1996/97.
VÀ CÁCH CHƠI…
Triết lý bóng đá của Dortmund 1997 cũng trái ngược với Dortmund năm nay. 16 năm trước, HLV Ottmar Hitzfeld chủ động xây dựng một Dortmund thực dụng, lì lợm với sơ đồ thiên về phòng ngự 5-3-2. Điểm mạnh của họ nằm ở các tuyến dưới với thủ lĩnh Sammer và nhạc trưởng Andreas Moeller. Còn hai tiền đạo Chapuisat và Riedle không được đánh giá cao ở Champions League. Mỗi người chỉ có 4 bàn mùa giải đó.
Còn bây giờ, riêng Lewandowski (10 pha lập công) đã có số bàn thắng nhiều hơn cả Chapuisat và Riedle gộp lại. Dortmund không chỉ có một tiền đạo hàng đầu châu Âu mà còn sở hữu cỗ máy tấn công nguy hiểm với những Goetze, Reus, Blaszczykowski. Tấn công cởi mở và không biết sợ đã trở thành bản sắc của Dortmund dưới triều đại Klopp. Nhờ vậy mà họ có thể vùi dập Real Madrid tới 4-1 hay thắng ngược Malaga bằng những pha lập công vào phút bù giờ. Trong một giải đấu đầy toan tính như Champions League, Dortmund trở nên khá lạc lõng khi theo đuổi thứ bóng đá tấn công đôi khi hồn nhiên khiến họ không ít lần phải trả giá. Nhưng bây giờ thầy trò Klopp đã có mặt ở Wembley.
Không ai có thể phủ nhận con đường mà họ đang đi.
CON SỐ
23.Tính tới trước trận chung kết, Dortmund đã ghi 23 bàn tại Champions League 2012/13, bằng đúng tổng số bàn thắng của họ tại mùa 1996/97. Tuy nhiên xét về hiệu suất thì Dortmund đang thua sút chính họ 16 năm trước. Champions League 1996/97, Dortmund đạt hiệu suất 2,09 bàn trận (23 bàn/11 trận). Còn mùa này, họ chỉ có 1,91 bàn/trận (23 bàn/12 trận).