Năm 2010 AVG đã ký kết mua hợp đồng độc quyền bản quyềntruyền hình các giải bóng đá chuyên nghiệp VN trong 20 năm với VFF. Bằng chứngcho việc này là mùa giải vừa qua 2011 vừa qua, AVG đã bán lại cho các nhà đài.Khi VPF ra đời và đi vào hoạt động với nhiệm vụ tổ chức và điều hành các giảiđấu bóng đá chuyên nghiệp của mùa 2012, họ muốn đàm phán lại hợp đồng này vớiAVG.
Có thể nói, hợp đồng ký giữa AVG và VFF nếu không có sự đồngý của AVG thì VFF không có quyền chuyển giao quyền và nghĩa vụ cho VPF vì đốitượng của hợp đồng là bản quyền truyền hình đang là của AVG nắm giữ.
Theo quy định tại Điều315 Bộ luật Dân sự (BLDS) về Chuyển giao nghĩa vụ dân sự:
“1. Bên có nghĩa vụ cóthể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyềnđồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặcpháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyểngiao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Và Ðiều 316 BLDS vềHình thức chuyển giao nghĩa vụ dân sự:
“1. Việc chuyển giaonghĩa vụ dân sự được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói.
2. Trong trường hợppháp luật có quy định việc chuyển giao nghĩa vụ phải được thể hiện bằng vănbản, phải có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép thì phảituân theo các quy định”…
Mặc dù hiện tại VPF là chủ sở hữu các giải đấu nhưng bản quyềntruyền hình vẫn đang thuộc về AVG (cuối năm 2010, VFF đã ký hợp đồng bán độcquyền bản quyền truyền hình các giải đấu V-League, giải hạng Nhất, Cúp QG và cảSiêu Cúp QG cho Công ty CP Viễn thông và Truyền thông An Viên (AVG) trong thờihạn 20 năm. Trong hợp đồng đã ký với AVG có câu: “Không một bên nào có quyềnhủy ngang bất kỳ nội dung nào, vì bất cứ lý do gì”; Vấn đề bản quyền này cònđược quy định trong điều lệ VFF).
Do vậy, nếu VPF muốn thương thảo lại hợp đồng trừ khi có sựthỏa thuận 3 bên bằng văn bản về việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong hợpđồng đó và VFF vẫn là đơn vị đồng chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quantrong hợp đồng và phải đảm bảo tính kế thừa, toàn vẹn của hợp đồng đã ký.
AVG đã quyết định chia sẻ miễn phí, chịu lỗ gần 200 triệuđồng với bản quyền phát sóng trận khai mạc giải hạng Nhất 2012 (TrẻSHB.ĐN-ĐT.LA vào ngày 31/12) và Super League (SLNA-Thanh Hóa vào ngày 1/1/2012)cho các đài truyền hình. Như vậy, AVG đã rất thiện chí chờ đợi VFF và VPF thựchiện chuyển giao hợp đồng theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Theo Quyết định số 20/2011/QĐ-TTg do Phó Thủ Tướng NguyễnThiện Nhân ký ngày 24/3/2011 ban hành quy chế quản lý hoạt động truyền hình trảtiền có hiệu lực từ ngày 15/5/2011, quy định cụ thể:
Tại Điều 16. Bản quyềnkênh chương trình trên truyền hình trả tiền
“2. Các kênh chươngtrình còn lại trên hệ thống truyền hình trả tiền, các chương trình trên dịch vụtruyền hình theo yêu cầu phải bảo đảm các yêu cầu về bản quyền như sau:
a) Có văn bản chứngminh bản quyền hợp pháp”.
Tại Điều 25. Quyền vànghĩa vụ của đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền
“8. Được chủ động lựachọn các kênh chương trình truyền hình trả tiền hợp pháp không thuộc danh mụckênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếutheo quy định tại Quy chế này.
11. Hoạt động kinhdoanh đúng pháp luật”.
Tại Điều 32. Xử lý viphạm
“1. Mọi tổ chức, cánhân có hành vi vi phạm các quy định của Quy chế này thì tùy theo tính chất,mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, thu hồi giấy phép hoặc bị truycứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy địnhcủa pháp luật”.
Việc ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ tịch HĐQT của VPF, ký côngvăn số 20/VPF/2011 cho phép VTV và các đơn vị truyền hình trực thuộc VTV đượctuyên truyền, truyền hình trực tiếp và phát lại các trận bóng đá của các giảibóng đá mà không thông qua đàm phán với AVG sẽ gây thiệt hại trực tiếp cho AVG.
Công văn trên không thể chỉ căn cứ vào Điều 53 Luật Thểthao, mà nó còn phải tuân theo quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng. Theonguyên tắc áp dụng luật thì công văn trên không áp dụng được cho trường hợpnày, bởi vì đối tượng của hợp đồng bản quyền truyền hình là VFF & AVG, khi 2đối tác chưa có sự chuyển giao (hoặc thanh lý) hợp đồng bằng văn bản thì VPFchưa phải là đối tượng điều chỉnh theo Điều 53 Luật Thể thao. Ngoài ra,nguyên tắc áp dụng luật còn theo thời gian ban hành và cần được các bên nghiêmchỉnh thực hiện.
Điều 53 Luật Thể dục Thể thao: Quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp 1. Việc bảo hộ quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp được thực hiện theo pháp luật về dân sự và pháp luật về sở hữu trí tuệ. 2. Liên đoàn thể thao quốc gia, câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác tổ chức giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp là chủ sở hữu giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp do mình tổ chức. 3. Chủ sở hữu giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp được chuyển nhượng quyền sở hữu đối với giải thể thao cho tổ chức, cá nhân theo hợp đồng do các bên thoả thuận. 4. Chính phủ quy định chi tiết về quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp.
Thethaovanhoa.vn